Giáo dục

Những ngộ nhận về giáo sư

TTO - Ở nhiều nước, giáo sư là một chức vụ khoa bảng và chức vụ này được bổ nhiệm hoặc đề bạt theo hai ngạch giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học.

Những ngộ nhận về giáo sư - Ảnh 1.

Mỗi nước có một hệ thống giáo dục đại học riêng, do đó các tiêu chuẩn về chức vụ giáo sư cũng rất khác nhau - Ảnh: University of Newcastle

Những ngày qua, vấn đề công nhận chức danh giáo sư thu hút nhiều sự chú ý của giới báo chí và công chúng. Từ con số giáo sư và phó giáo sư (gọi chung là "giáo sư") được xem là tăng đột biến, có nhiều câu hỏi về qui trình và tiêu chuẩn cho chức danh giáo sư. 

Đã có nhiều ý kiến bàn về chức danh giáo sư ở nước ngoài, chủ yếu ở các nước Âu châu, Mỹ và Úc. Tuy nhiên tôi thấy có nhiều ngộ nhận cần phải được giải thích lại cho rõ ràng hơn. 

Ngộ nhận 1: Giáo sư là phẩm hàm, chức danh hay chức vụ? Trước đây, ở các nước xã hội chủ nghĩa bên Đông Âu, giáo sư trong các đại học được xem là một phẩm hàm (honour hay order) do Nhà nước ban tặng và đương sự giữ hàm đó suốt đời. 

Nếu xem giáo sư là một phẩm hàm thì chữ "chức danh giáo sư" có thể dùng. Nhưng ngày nay, nhiều đại học Đông Âu đã theo mô hình đại học Mỹ, nơi mà giáo sư được xem là một chức vụ khoa bảng (academic position), thường do trường đại học đề bạt hoặc bổ nhiệm. 

Người ta bổ nhiệm hay đề bạt một cá nhân, chứ không ai "bổ nhiệm chức danh." Do đó, ở Mỹ và Úc không có trường nào "công nhận chức danh giáo sư"; họ chỉ bổ nhiệm hay đề bạt "chức vụ giáo sư" như là một hình thức công nhận những đóng góp quan trọng và xuất sắc của các ứng viên.

Ngộ nhận 2: Chỉ có hai bậc giáo sư? Ở Việt Nam chỉ có hai bậc giáo sư là "Phó giáo sư" và "Giáo sư", nhưng nhiều đại học trên thế giới có 3 bậc giáo sư: Giáo sư trợ lí (Assistant Professor), Giáo sư dự bị (Associate Professor), và Giáo sư thực thụ (Full Professor). 

Ở Úc có thời theo hệ thống của Anh, nên một số đại học còn duy trì hệ thống 4 bậc: Giảng viên (Lecturer), Giảng viên cao cấp (Senior Lecturer), Giáo sư dự bị (Associate Professor) hay Reader, và Giáo sư thực thụ (Full Professor). 

Lưu ý rằng tuy mang danh là "Giáo sư trợ lí" nhưng những người giữ chức vụ này không phải là phụ tá cho giáo sư nào cả, mà họ là những nhà khoa học độc lập.

Ngộ nhận 3: Giáo sư chỉ dành cho người giảng dạy? Trong thực tế, chức vụ giáo sư có thể dành cho người giảng dạy đại học, nhưng cũng dành cho những người chuyên làm nghiên cứu khoa học, hoặc những người vừa giảng dạy vừa nghiên cứu khoa học. 

Các đại học phương Tây đề bạt chức vụ giáo sư theo 2 ngạch: nghiên cứu khoa học và giảng dạy. Cũng là chức vụ và danh xưng "giáo sư", nhưng mỗi ngạch có những tiêu chuẩn khác nhau. Những giáo sư theo ngạch nghiên cứu rất ít giảng dạy; nếu có giảng dạy thì qua hướng dẫn nghiên cứu sinh. Trong khi đó, những giáo sư theo ngạch giảng dạy vẫn phải làm nghiên cứu khoa học.

Ngộ nhận 4: Giáo sư phải là người của đại học? Không hẳn như thế. Đa số giáo sư là người của trường đại học (hiểu theo nghĩa trường đại học trả lương); tuy nhiên, một số không ít các nhà khoa học làm việc tại các viện nghiên cứu hoặc bệnh viện vẫn có thể giữ chức vụ giáo sư nhưng không do đại học trả lương. 

Ở Đức, có cả 5 "con đường", kể cả giảng dạy, nghiên cứu khoa học và lãnh đạo khoa học, để một ứng viên được thăng tiến và đề bạt vào chức vụ giáo sư.

Đó là chưa kể một số giáo sư kiêm nhiệm, nhưng họ phải đề chức danh trước tên là "Adjunct Professor" chứ không được đề là "Professor". Một số người sau khi rời đại học và không còn giảng dạy (có thể là nghỉ hưu) vẫn có thể được quyền dùng danh xưng giáo sư, nhưng kèm theo chữ "Emeritus". 

Danh xưng "Emeritus Professor" không phải "tự động" sau khi nghỉ hưu, mà phải do hội đồng khoa bảng của đại học quyết định trao tặng cho những người đã có những đóng góp quan trọng cho trường đại học khi còn tại chức.

Những ngộ nhận về giáo sư - Ảnh 2.

Số lượng giáo sư, phó giáo sư được công nhận ở Việt Nam qua các năm - Nguồn: Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước - Đồ họa: TẤN ĐẠT

Ngộ nhận 5: Mỗi bộ môn trong đại học chỉ có một giáo sư? Điều này không đúng với thực tế. Ở nhiều nước, kể cả Mỹ, Úc, Canada, Đức, Anh, mỗi bộ môn có thể có nhiều giáo sư thực thụ. Dĩ nhiên, mỗi bộ môn chỉ có một giáo sư trưởng bộ môn. 

Cần nói thêm rằng ở nước ngoài, nhiều giáo sư không muốn làm trưởng bộ môn vì họ không muốn những công việc hành chính làm ảnh hưởng đến nghiên cứu của họ và do đó, nhiều nơi có chế độ luân lưu trưởng bộ môn.

Ngộ nhận 6: Công bố nhiều bài báo khoa học mới xứng đáng giáo sư? Bổ nhiệm chức vụ giáo sư không tuỳ thuộc vào năng suất nghiên cứu khoa học (thể hiện qua số bài báo khoa học đã công bố), mà tuỳ thuộc rất lớn vào chất lượng và tác động xã hội của nghiên cứu khoa học. Do đó, công bố nhiều bài báo không bao giờ được xem là yếu tố quyết định trong đề bạt các chức vụ khoa bảng. 

Cũng cần phải nói thêm rằng bài báo khoa học chỉ là một trong nhiều tiêu chuẩn khác như đóng góp cho trường, đóng góp cho quốc gia, đóng góp cho chuyên ngành, uy tín trong chuyên ngành ở tầm quốc tế và phụng sự xã hội.

Ngộ nhận 7: Công bố một hay vài bài báo khoa học trên tập san "đỉnh" là xứng đáng chức vụ giáo sư? Chất lượng nghiên cứu khoa học không phải chỉ thể hiện qua một hay vài báo báo quan trọng. Do đó, có nhiều người ở nước ngoài dù có các công trình trên các tập san hàng đầu như Science, Nature, Cell... nhưng vẫn chưa đủ chuẩn để được đề bạt lên chức vụ giáo sư. 

Khi đề bạt chức vụ giáo sư, hội đồng phải xem xét cả quá trình dài của ứng viên, chứ không phải chỉ vài trường hợp cá biệt hay ngoại lệ.

Ngộ nhận 8: Giỏi chuyên môn và viết nhiều sách mới xứng đáng giáo sư? Có nhiều người hiểu lầm rằng hễ giỏi chuyên môn là xứng đáng chức vụ giáo sư, nhưng quan điểm này không đúng và không khoa học. Vấn đề là ai đánh giá và dựa vào tiêu chí gì để đánh giá là "giỏi". 

Như có đề cập trên, trình độ chuyên môn chỉ là một trong nhiều tiêu chuẩn để đề bạt hay bổ nhiệm chức vụ giáo sư. 

Nói chung, viết sách không phải là một tiêu chuẩn cần thiết để được đề bạt chức danh giáo sư. Tuy nhiên, có vài nơi và vài chuyên ngành, người ta xem sách là một chứng cứ về nghiên cứu khoa học nên vẫn được xem xét như là một tiêu chuẩn để đề bạt.

Ngộ nhận 9: Giáo sư phải có bằng tiến sĩ? Ngày nay, đa số các giáo sư có bằng tiến sĩ, nhưng chỉ có một số ít tiến sĩ trở thành giáo sư. Tuy nhiên, văn bằng tiến sĩ không phải là điều kiện cần để trở thành giáo sư. 

Trong thực tế, ở các nước đang phát triển và ngay cả ở các nước tiên tiến, có nhiều bác sĩ và không ít nhà khoa học với bằng cao học (masters) vẫn có thể được bổ nhiệm làm giáo sư.

Ngộ nhận 10: Tiêu chuẩn đề bạt hay bổ nhiệm giáo sư giống nhau giữa các đại học? Ở các nước Âu Mỹ, các đại học có những tiêu chuẩn đề bạt và bổ nhiệm chức vụ giáo sư rất khác nhau. 

Các đại học càng danh tiếng có những tiêu chuẩn càng cao so với các đại học kém nổi tiếng. Chẳng hạn các đại học trong nhóm "G8" (Úc) hay các đại học trong nhóm "Ivy League" (Mỹ) có tiêu chuẩn cao hơn các đại học vùng hay đại học trong nhóm "state university".

Tóm lại, giáo sư là một chức vụ khoa bảng và chức vụ này được bổ nhiệm hoặc đề bạt theo hai ngạch giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học, với những tiêu chuẩn khác nhau. 

Tiêu chuẩn không chỉ giới hạn trong số lượng hay chất lượng nghiên cứu khoa học, mà còn bao gồm những khía cạnh đóng góp cho chuyên ngành, cho xã hội, cho trường và cho quốc gia.


Mỗi nước có một hệ thống giáo dục đại học riêng, do đó các tiêu chuẩn về chức vụ giáo sư cũng rất khác nhau giữa các nước. Tuy nhiên, có một mẫu số chung ở các nước Âu Mỹ là các quan chức trong chính phủ không giữ chức vụ giáo sư. Họ có thể được trao tặng danh hiệu "giáo sư", nhưng họ không phải là giáo sư thực thụ.

Vài năm trước ở Anh có một quan chức rất cao cấp dùng danh xưng "Professor" trước tên bà, nhưng hai đại học Úc đã nhắc nhở rằng bà chỉ có quyền dùng danh xưng "Adjunct Professor" (để người ta biết rằng đó không phải là một chức vụ chính thức).

Việt Nam, sau lần công nhận chức danh giáo sư năm nay, đã có hơn 12.000 giáo sư và phó giáo sư. Đó là một con số khá lớn so với nước láng giềng. Ở Thái Lan, số liệu năm 2015 cho thấy cả nước có 6.343 phó giáo sư và 754 giáo sư.

Tuy nhiên, Thái Lan chỉ có khoảng 150 đại học, trong đó có 14 đại học tự chủ. Nhưng mỗi năm Thái Lan công bố được gần 10.000 bài báo khoa học, cao gấp 2 lần Việt Nam.

Tuổi trẻ

© 2021 FAP
  261,827       1/259